Lịch âm dương

Xem tin theo ngày

< Tháng 12 2024 >
T2 T3 T4 T5 T6 T7 CN
            1
2 3 4 5 6 7 8
9 10 11 12 13 14 15
16 17 18 19 20 21 22
24 25 26 27 28 29
30 31          

Thống kê truy cập

mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counterHôm nay627
mod_vvisit_counterHôm qua4718
mod_vvisit_counterTuần này5345
mod_vvisit_counterTuần trước24393
mod_vvisit_counterTháng này147391
mod_vvisit_counterTháng trước291538
mod_vvisit_counterTất cả3093617

Có: 11 khách trực tuyến

Tin tức - Sự kiện

TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN, BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA NGƯỜI VIỆT

Email In PDF.

Thờ cúng tổ tiên, nét văn hóa tâm linh truyền thống của người Việt(ảnh minh họa)
Trong các hình thái tín ngưỡng dân gian, thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng cổ truyền mang tính phổ quát của người Việt Nam. Là người Việt Nam thì ” mọi người đều thờ cúng tổ tiên, mọi người đều thờ ông bà”.
Thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục, nét văn hóa truyền thống, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam, là một trong các thành tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất giản dị: tin rằng tổ tiên mình là thiêng liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu, họ phù hộ cho con cháu khi gặp tai ách, khó khăn; vui mừng khi con cháu gặp may mắn, khuyến khích cho con cháu khi gặp điều lành và cũng quở trách con cháu khi làm những điều tội lỗi…
Ở nước ta, thờ cúng tổ tiên không chỉ là tín ngưỡng phổ biến ở người Việt – tộc người đa số – mà còn lưu giữ ở một vài tộc người khác như người Mường, người Thái… Trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, trong khi nhiều tôn giáo, tín ngưỡng dân gian khác đã phải chịu cảnh long đong, bị kết tội “mê tín dị đoan” nhưng tín ngưỡng thờ tổ tiên đã và vẫn chiếm được vị trí thiêng liêng trong đời sống tinh thần của người Việt. Ý thức “con người có tổ, có tông” được bảo tồn trong cõi tâm linh và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, dù họ sống trên tổ quốc mình hay lưu vong nơi xứ người. Đặc biệt đây là hình thức tín ngưỡng được các thể chế chính trị (Nhà nước) từ xưa đến nay trân trọng thừa nhận, dù rằng với những mức độ khác nhau. Cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, nó là sự bồi lắng, kết tụ những giá trị đạo đức quý báu của con người Việt Nam.
1. Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên xuất hiện từ khi nào? Cho đến nay có khá nhiều các giả thuyết, nó được hình thành vào thời Bắc thuộc, cùng với những ảnh hưởng của văn hóa Hán. Nhưng một số vấn đề được trao đổi: liệu thời điểm ra đời có thể sớm hơn không, mối quan hệ giữa yếu tố bản địa và yếu tố du nhập trong việc hình thành tín ngưỡng này diễn ra như thế nào? chúng ta hãy tìm hiểu từ nền tảng văn hóa – xã hội của cộng đồng cư dân Việt.
Cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc hình thành bất cứ tôn giáo tín ngưỡng nào cũng là quan niệm tâm linh của con người về thế giới. Cũng như nhiều dân tộc khác, người Việt xuất phát từ nhận thức “vạn vật hữu linh” – mọi vật đều có linh hồn, và bắt đầu từ giới tự nhiên xung quanh mình. Vì thế, loại thần cổ sơ nhất được người ta sùng là các nhiên thần, đặc biệt là thần cây, thần núi, thần sông…. Bằng cách huyền thoại hóa, các vị nhiên thần đã được mang khuôn mặt của con người (hiền hậu hay dữ tợn), tâm lý của con người (vui mừng hay giận giữ). Có thể nói việc nhân hóa các thần tự nhiên đã tạo ra một bước chuyển cho việc hình thành hệ thống nhân hóa. Đây cũng chính là giai đoạn con người bắt đầu khám phá về bản thân mình. Đến một thời điểm nào đó, mối quan hệ giữa cái hữu hình và cái vô hình, nhất là cái sống và cái chết đã làm con người bận tâm. Vẫn với quan niệm vật linh kể trên, họ tin rằng trong mỗi con người đều có phần “hồn” và “vía”.
Không có ý thức cao siêu về thiên đàng hay địa ngục của Kitô giáo hay thuyết luân hồi chuyển kiếp đầu thai của đạo Phật, trong nhận thức dân gian, thể xác và linh hồn vừa gắn bó, vừa tách biệt. Chúng gắn bó khi sống và tách biệt khi chết, thể xác đã hòa vào cát bụi nhưng phần hồn vẫn tồn tại chuyển sang sống ở một thế giới khác. Cõi âm ấy cũng có mọi nhu cầu như cuộc sống dương gian. Theo quan niệm dân gian, chết cũng là một dạng “sống”trong một môi trường khác.
Người ta cho rằng nếu người chết không được cung cấp đầy đủ sẽ trở thành “ma đói” lang thang, quấy nhiễu người sống. Các am chúng sinh lập ở cuối làng, hay lễ Vu lan (rằm tháng bẩy) dành cho “thập chúng sinh” là những biểu hiện mong muốn chia sẻ, an ủi những linh hồn bơ vơ, thiếu đói không có người cúng tế. Một hiện tượng khá bí ẩn nhưng rất được con người tin tưởng, đó là âm phủ, người chết phù trợ cho người sống
Mối quan hệ giữa những người sống và những người chết cùng chung huyết thống lại càng gắn bó hơn. Trong vòng hai, ba đời thì đó còn là những kỷ niệm rất cụ thể và sâu sắc. Ông bà, cha mẹ dù qua đời nhưng vẫn luôn hiện diện trong tâm tưởng của con cháu, và con cháu luôn cảm thấy trách nhiệm cả về vật chất lẫn tinh thần đối với họ. Niềm tin vào cái chết chẳng qua là một cuộc trở về gặp tổ tiên, ông bà và tổ tiên có thể sẽ dõi theo, phù hộ độ trì cho con cháu, đã là cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Ở Việt Nam, mặc dù tất cả các tộc người đều có quan niệm tổ tiên và một số tộc người có những hình thức tôn thờ ở những mức độ khác nhau, theo nhiều nhà nghiên cứu, các hình thức này, hoặc tục cúng người chết trong tang lễ, cung cấp vật dụng khi chôn người chết, thờ một vài năm, hay lễ bỏ mả… không đồng nhất với hình thức thờ cúng tổ tiên truyền thống của người Việt (thờ cúng nối tiếp, lâu dài). Vì vậy, những nét tương đồng của hình thức tín ngưỡng này chỉ nhận thấy rõ nhất ở một vài nước Đông Nam Á, đặc biệt là Trung Quốc.
Xã hội cổ truyền của người Việt cũng có những cơ sở kinh tế nhất định cho việc hình thành và duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Trước hết đó là nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp. Đây chính là môi trường thuận lợi cho sự xuất hiện tín ngưỡng đa thần. Xét về phương diện kinh tế, làng xã Việt Nam đã gần như một đơn vị độc lập và tương tự như thế, là tế bào của nó – hộ gia đình nhỏ. Đây là nhân tố quan trọng gắn bó các thành viên của gia đình cùng một thế hệ và giữa các thế hệ. Mở rộng ra, các gia đình cư trú quần tụ theo họ, và nhiều họ tập hợp thành làng. Trước làng, con người không tồn tại với tư cách cá nhân mà dưới danh nghĩa gia đình dòng họ – những đơn vị huyết thống. Có thể nói nền kinh tế tiểu nông ấy là mảnh đất thuận lợi cho việc củng cố và phát triển ý thức dân tộc cũng như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở làng xã.
Trong khía cạnh kinh tế có một điểm quan trọng tạo nên nét khác biệt trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam và Trung Hoa. Do đặc trưng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, gió mùa nên Việt Nam sản xuất lúa nước theo truyền thống tiểu canh kết hợp với nuôi gia súc. Vì vậy sản xuất không đòi hỏi tập trung nhân công theo quy mô lớn như ở nơi sản xuất lúa mỳ khô, công cụ xản xuất cũng nhỏ, gọn, nhẹ, mọi thành viên trong gia đình từ phụ nữ, trẻ em đều sử dụng dễ dàng. Kết hợp tất yếu của quy trình này khiến người Việt gắn bó với gia đình, thường là gia đình hạt nhân chặt hơn với dòng họ. Hầu như gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên (dù thờ chính hay thờ vọng) nhưng không phải dòng họ nào cũng có từ đường.
Hình thức tổ chức xã hội cũng là một yếu tố quan trọng cho việc hình thành tín ngưỡng. Ở giai đoạn thị tộc phụ quyền, người đàn ông bắt đầu nắm giữ quyền hành quản lý gia đình do họ đã có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế, vợ và con cái họ tuyệt đối phục tùng và tôn trọng cái uy quyền đã được xác lập ấy, không chỉ khi họ còn sống mà cả khi họ đã qua đời. Những đứa con mang họ cha đã kế tiếp ý thức về uy quyền, và phải chăng các nghi thức ma chay, cúng tế tổ tiên cũng chính là “hình thức phản ánh hoang đường quyền hành gia trưởng trong một gia đình”.
Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ra đời và duy trì trong những điều kiện lịch sử – xã hội nhất định. Từ hình thức liên minh cộng đồng nguyên thủy đến hình thức liên kết gia đình sơ khai theo trục huyết thống nam đã là một chặng đường lịch sử khá dài. Theo con đường “ chung tộc danh về phía bố”, các gia đình nhỏ liên kết lại với nhau thành họ. Đây là loại đơn vị ngoại hôn vì các thành viên trong họ liên kết với nhau bằng sợi dây huyết thống và cùng chung một vị thủy tổ.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở người Việt đã hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở quan niệm tâm linh và một nền tảng kinh tế xã hội tư tưởng khá bền vững. Có thể nói những yếu tố tâm linh có tính bản địa và mộc mạc đã được thể chế hóa, hợp pháp hóa nhờ hệ tư tưởng Nho giáo và sự ủng hộ của các vương triều. Chính vì vậy, tín ngưỡng này đã được bảo tồn qua suốt tiến trình lịch sử nhiều biến động.
2. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là gì?
Tín ngưỡng của tục thờ cúng tổ tiên là quan niệm về sự tồn tại của linh hồn và mối liên hệ giữa người đã chết và người sống (cùng chung huyết thống) bằng con đường hồn về chứng kiến, theo dõi hành vi của con cháu, quở trách hoặc phù hộ cuộc sống của họ. Trong tín ngưỡng này đạo lý là nội dung nổi trội.
Đạo lý uống nước nhớ nguồn, một mặt con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối với các bậc sinh thành, lúc họ đã chết cũng như khi còn sống. Mặt khác, nó cũng thể hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu đối với nhu cầu của tổ tiên. Trách nhiệm được biểu hiện không chỉ trong các hành vi sống (giữ gìn danh dự và tiếp tục truyền thống của gia đình, dòng họ, đất nước) mà còn ở trong các hành vi cúng tế cụ thể. Một học giả nước ngoài khi nghiên cứu về tín ngưỡng này ở nước ta đã nhận xét: “Các thành viên trong gia đình kính dâng các đồ cúng lễ là tuyệt đối cần thiết để cho linh hồn tổ tiên có được sự yên nghỉ thanh thản ở thế giới bên kia”.
Ở đây cũng cần nhắc tới đặc trưng “duy tình” hơn “duy lý” của người Việt. Mặc dù nhiều dân tộc phương Đông có tâm lý ứng xử duy tình, nhưng ở người Việt, thái độ này biểu hiện rất rộng và thể hiện rất sâu sắc ( không chỉ đối với người đang sống mà cả với những người sắp chào đời hoặc đã chết). Người ta luôn luôn chịu sự chi phối của quan niệm vừa mong được nhận “phúc ấm của tổ tiên”, “sống vì mồ mả, ai sống vì bát cơm”, vừa lo trách nhiệm để phúc lộc cho con cháu “phúc đức tại mẫu”, “đời cha ăn mặn đời con khát nước”. Khi cúng lễ tổ tiên, một mặt con người hướng về quá khứ, định hướng cho hiện tại (giáo dục truyền thống gia đình, đạo lý làm người cho con cháu) và mặt khác đã chuẩn bị cho tương lai. Đường dây thế hệ mà cũng là đường dây đạo lý sẽ luôn liên tục nối tiếp, phát triển.
Thờ cúng tổ tiên còn là hình thái tín ngưỡng có ý nghĩa lớn về mặt tổ chức cộng đồng trong xã hội truyền thống. Sống trong xã hội, xét theo cả trục dọc và trục ngang, con người không thể sống biệt lập, đơn độc. Theo trục dọc phụ hệ, thờ cúng tổ tiên là sự nối tiếp liên tục các thế hệ: ông bà – cha mẹ – bản thân. Mỗi con người phải có trách nhiệm thờ phụng bốn đời trước: cao, tằng, tổ, khảo (kỵ, cụ, ông, bố) và họ cũng tin rằng sẽ được con cháu bốn đời kế tiếp cúng giỗ. Theo trục ngang, thờ cúng tổ tiên đã gắn bó con người trong mối liên kết dòng họ: họ cha, họ mẹ, họ vợ (hoặc chồng). Với tư cách một tập thể – gồm cả người đang sống và người đã chết gắn bó với nhau về huyết thống và thờ chung một thủy tổ, dòng họ có sức mạnh đảm bảo giá trị tinh thần cho mỗi thành viên của nó trong làng xã
Vai trò tổ chức liên kết cộng đồng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn rõ hơn khi ta xem xét vấn đề thờ quốc tổ. Cả cộng đồng cư dân Việt Nam được củng cố bởi niềm tin chung một cội nguồn “đồng bào”, đều là “con Lạc cháu Hồng”. Và đó cũng chính là sức mạnh giúp cho dân tộc ta vững vàng trước mọi sự đe dọa của giặc ngoại xâm “các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”.(Hồ Chủ Tịch). Suốt từ thế kỷ XV, XVI đến nay, khi Hùng Vương được coi là quốc tổ, ý thức này đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống tâm linh của dân tộc.
 
Thờ 18 vị Vua Hùng theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
 Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có nội dung bình dị và giàu tính thực tiễn, không cực đoan như nhiều tôn giáo khác. Bởi thế nó dễ dàng được thế tục hóa trở thành nếp sống, phong tục, bám rễ sâu trong tiềm thức của mỗi người. Bằng việc thờ cúng tổ tiên, thế hệ trước nêu gương cho thế hệ sau không chỉ vì trách nhiệm đối với các bậc sinh thành mà còn để giáo dục dạy dỗ con cháu lưu truyền nòi giống. Giáo sư Đào Duy Anh cho rằng: “tế tự tổ tiên là lấy sự duy trì chủng tộc làm mục đích”. Trong khi tế lễ, lời khấn vái của họ cũng thật giản dị, rất thực tiễn: lời cầu xin che chở, phù trợ cho cuộc sống hàng ngày của họ được bình yên, suôn sẻ. Không biết sự cầu xin ấy hiệu quả như thế nào, nhưng trước hết, con người cảm thấy thanh thản về mặt tâm linh, điểm tựa tinh thần quan trọng cho cuộc sống. Trong sự thờ cúng này đã thực sự nảy sinh mối quan hệ hai chiều: người chết cần đến sự cúng lễ của người sống để có thể yên ổn ở thế giới bên kia, không thành “ma đói” lang thang, còn người sống chỉ có thể an bình, thanh thản khi được che chở, phù trợ một cách bí ẩn của người chết. Linh hồn các bậc tiền bối luôn luôn bên cạnh con cháu, mách bảo cho họ và giúp đỡ họ có một cuộc sống tốt đẹp thuận hòa. Với những mong muốn bình dị và niềm tin nguyên thủy chất phát, thờ tổ tiên được coi là thứ tín ngưỡng “vừa tầm” với mọi lớp người cả về mặt nội dung đạo lý và nghi thức thực hiện. Do đó, khả năng phổ biến trong không gian và thời gian của tín ngưỡng này cũng là một điều dễ hiểu.
Các tôn giáo ngoại lai, để tồn tại được ở Việt Nam, đã buộc phải dung hòa với thứ tín ngưỡng bản địa cắm rễ sâu trong tâm thức người Việt – thờ cúng tổ tiên. Còn các tôn giáo xuất hiện nội sinh trong nước như Cao Đài, Hòa Hảo ở miền Nam cũng đã biết dựa trên cơ sở của đạo thờ cúng ông bà. Không chỉ các tôn giáo, mà ngay cả trong các tín ngưỡng dân gian khác như tín ngưỡng thờ thành hoàng, thờ Mẫu…, ta cũng thấy dấu vết tác động của tín ngưỡng thờ tổ tiên ở sự biết ơn cội nguồn, biết ơn các đấng sinh thành. Bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ thần, người dân Việt thờ Mẫu (thờ mẹ) với mong muốn kéo vị thần này gần với tín ngưỡng gia tộc, từ đó có mối đồng cảm gắn bó như giữa người mẹ luôn che chở với đàn con của mình.
Có thể nói, thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng dân gian của dân tộc có nguồn gốc từ xa xưa và mang đạo lý nhân ái uống nước nhớ nguồn trong tiến trình lịch sử, nó đã được các hệ tư tưởng tôn giáo khác bổ sung hoàn chỉnh để thể chế hóa thành một thứ đạo: Đạo tổ tiên – Đạo Ông Bà.
3. Nghi thức thờ cúng tổ tiên
Tổ tiên theo quan niệm của người Việt Nam, trước hết là những người cùng huyết thống, như cha, mẹ, ông, bà, cụ, kỵ v.v… là người đã sinh ra mình. Tổ tiên cũng là những người có công tạo dựng nên cuộc sống hiện tại như các vị “Thành hoàng làng” các “Nghệ tổ”. Không chỉ thế, tổ tiên còn là những người có công bảo vệ làng xóm, quê hương, đất nước khỏi nạn ngoại xâm như Trần Hưng Đạo đã thành “Cha” được tổ chức cúng, giỗ vào tháng 8 âm lịch hàng năm. “Tháng 8 giỗ cha” ở rất nhiều nơi trong cộng đồng người Việt. Ngay cả “Thành hoàng” của nhiều làng cũng không phải là người đã có công tạo dựng nên làng, mà có khi là người có công, có đức với nước được các cụ xa xưa tôn thờ làm “thành hoàng”. Tổ tiên trong tín ngưỡng của người Việt Nam còn là “Mẹ Âu Cơ”, còn là “Vua Hùng”, là người sinh ra các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam.

Sự biết ơn và tưởng nhớ công lao là thể hiện đạo lý “uống nước
nhớ nguồn” đối với tổ tiên. Ảnh du khách đến dâng hương tại Đền Hùng
 Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng mà thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập “mối liên hệ” giữa người sống với người chết, giữa người ở thế giới hiện tại và thế giới tâm linh. Là sự thể hiện quan niệm về nhân sinh của người Việt Nam: “sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn”. Với người Việt Nam, chết chưa phải là hết, tổ tiên lúc nào cũng ở bên cạnh người sống, “như tại” trên bàn thờ mỗi gia đình, động viên, trợ giúp cho con cháu trong cuộc sống thường ngày. Nếu như tôn giáo thường tuyệt đối hóa đời sống tinh thần, hướng con người về thế giới siêu thoát, thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tuy có hướng con người về với quá khứ, song lại rất coi trọng hiện tại và tương lai.
Đạo lý biết ơn và tiếp tục nối dõi truyền thống tổ tiên chỉ trở thành nội dung bên trong của tín ngưỡng khi đạo lý được bộc lộ thông qua các nghi thức có tính chất huyền bí, thiêng liêng. Các nghi thức thờ cúng tổ tiên ở nước ta tuy phần lớn phỏng theo nghi lễ Nho giáo, nhưng lại có những yếu tố rất gần gũi với Phật giáo hay Đạo giáo. Mặt khác với tính chất một tín ngưỡng dân dã, các hành vi lễ thức thường được thực hiện theo tâm thức dân gian và cũng không hoàn toàn thống nhất ở các gia đình, các địa phương.
Thời gian cúng giỗ là những ngày húy kỵ của tổ tiên, những ngày lễ, tết trong năm. Ngoài ra, việc cúng giỗ tổ tiên cũng được tổ chức vào những ngày trong gia đình có sự kiện quan trọng như lấy vợ, làm nhà, tậu trâu, thi cử, đi xa, nhà có người ốm đau… Thông qua nghi lễ thờ cúng, người Việt Nam gửi gắm tình cảm biết ơn đối với tổ tiên. “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” và vì “Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu”. Trong mỗi gia đình tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dần dần trở thành đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, thành “đạo hiếu”. Đạo hiếu là cái gốc của mỗi con người. Công cha, nghĩa mẹ như núi cao, nước nguồn cho nên phải hiếu thảo với cha, mẹ khi còn sống, thành kính, biết ơn, tiếc thương khi cha, mẹ khuất núi về với tổ tiên. Lòng hiếu thảo là giá trị đạo đức quý báu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam.
Thờ cúng tổ tiên trong gia đình và gia tộc
Mang đặc tính của cư dân nông nghiệp đa thần giáo, trong gia đình người ta thường thờ phụng nhiều vị thần. Bên cạnh việc thờ tổ tiên, thờ Phật, người ta còn thờ bà Cô, ông Mãnh (ông Hoàng) là những người thân thích, chết trẻ, hoặc chết vào giờ linh thiêng. Ở một số gia đình, vị trí bàn thờ được sắp xếp theo quy định, ví dụ thờ Thánh sư ở góc nhà, thờ Tiền chủ ở bàn thờ đặt ngoài sân, thờ bà Cô, ông Mãnh ở cạnh thấp hơn bàn thờ tổ tiên…. Trong các vị thần được thờ tại gia, thường không có vị thần nào được sắp xếp ngang hàng với tổ tiên. Thông thường ban thờ được đặt cao ở vị trí trang trọng nhất, gian chính giữa của nhà trên. Đây là điểm khác biệt với một số dân tộc khác ở Đông Á. Ở Hàn Quốc người ta chỉ lập bàn thờ và dán bài khi có việc cúng giỗ, ở Nhật Bản, vị trí trang trọng nhất trong nhà dành thờ Thần đạo (Shinto) còn ban thờ tổ tiên lại lập ở gian phụ.

Bàn thờ gia tiên được đặt ở vị trí trang trọng trong nhà
 Việc bài trí bàn thờ gia tiên thường không giống nhau, điều này phụ thuộc vào quan niệm tâm linh và cả điều kiện kinh tế của gia chủ. Nhìn chung bàn thờ gia tiên nào cũng có một số đồ thờ chủ yếu sau: bài vị, bát hương, đĩa đèn, bình hoa, chén rượu, mâm đựng hoa quả…. Các gia đình bình dân, đồ thờ thường được làm bằng gỗ hoặc sành sứ, còn các gia đình giàu có thế nào cũng có đồ thờ tự bằng đồng. Bàn thờ gia tiên của ngành trưởng phức tạp hơn ngành thứ, của chi trưởng phức tạp hơn chi thứ, gia đình con thứ, con út chỉ thờ vọng nên bài trí bàn thờ cũng đơn giản hơn con trưởng.
Với trách nhiệm thờ phụng nhiều đời: cao, tằng, tổ, khảo, bàn thờ các gia đình chi trưởng, ngành trưởng có đặt các tấm thần chủ được làm bằng gỗ táo (với ý nghĩa cây táo sống nghìn năm) ghi rõ tên tuổi các vị tổ. Trên bàn thờ ở các từ đường dòng họ còn có bài vị Thủy tổ của họ, bài vị có sự chuyển dịch. Khi thờ cúng đến đời thứ năm thì thần chủ của đời này được đem chôn, vì thế mới có câu “Ngũ đại mai thần chủ”. Các thần chủ đời sau được chuyển lên bậc trên, và tấm thần chủ của ông mới nhất được thay vào vị trí “khảo”. Như vậy, các gia đình chi thứ, ngành thứ, các vị tổ đời thứ tư, thứ ba chỉ được thờ vọng, mà chủ yếu thờ hai đời gần nhất (ông bà, cha mẹ).
Việc thờ cúng tổ tiên tại gia đình thường được tiến hành quanh năm, xuất phát từ quan niệm dù đã khuất nhưng linh hồn họ vẫn luôn ở bên cạnh con cháu. Không chỉ cúng lễ trong các dịp quan trọng như tang ma, giỗ chạp, cưới xin…, không chỉ trong những ngày lễ tiết như Tết nguyên đán, Thanh minh, Hàn thực, Đoan ngọ…, các ngày Sóc(ngày mồng một), Vọng (ngày rằm) theo chu kỳ tuần trăng, mà các vị tổ tiên còn được con cháu kính cáo mọi chuyện vui buồn: sinh nở, ốm đau, thi cử, đỗ đạt, kiện cáo, bất hòa, dựng vợ gả chồng… Con cháu còn kính mời các vị về hưởng thụ hoa trái đầu mùa, lễ tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc. Có thể nói trong tâm thức những người sống tổ tiên là bất tử. Người Việt dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công. Bản chất việc thờ cúng tổ tiên của người Việt là từ niềm tin người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ nhau. Con cháu thì thăm hỏi, khấn cáo tiền nhân. Tổ tiên thì che chở, dẫn dắt hậu thế nên việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lưu giữa cõi dương và cõi âm.
Đồ lễ trên bàn thờ cũng không quy định chặt chẽ lắm, tùy tâm nhưng điều cơ bản phải là những thứ thanh khiết và được dành riêng. Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt ở trên cao, tại nơi trang trọng nhất trong nhà (gian giữa đối với nhà một tầng, tầng trên cùng đối với nhà tầng). Trên bàn thờ bày bát hương, chân đèn, bài vị hay hình ảnh người quá cố.Bàn thờ được coi là những dấu vết còn lại của tín ngưỡng thờ mặt trời và thần lửa. Chén nước trắng tinh khiết cũng được giải mã từ tục thờ thần nước xa xưa. Có thể một triết lý quen thuộc của phương Đông cũng đã xuất hiện ở đây: sự giao hòa âm dương. Bên cạnh chén nước, bình rượu (âm) cần đến sự có mặt của hương lửa (dương). Cũng như khi hóa vàng (đốt mã), người ta cho rằng phải đổ chén rượu hoặc nước lên đống tro thì người âm mới nhận được lễ. Theo quan niệm dân dã, nén hương là chiếc cầu nối giữa tổ tiên và con cháu, nó có khả năng chuyển tải lời thỉnh cầu của những người sống và chính mùi thơm thanh cao của hương, hoa đã tạo ra được sự giao hòa giữa người hai cõi.

Mâm ngũ quả và bánh trưng ngày tết thờ cúng tổ tiên (ảnh minh họa)
 Sau khi cúng giỗ, gia đình thường dọn thức ăn vừa cúng xong để cùng ăn, coi như hưởng lộc của tiền nhân. Bạn bè thân thuộc cũng được mời đến dùng bữa, tức là đi ăn giỗ.
Lễ thức trong tang ma được coi là lễ thức quan trọng bậc nhất để đưa ông bà, cha mẹ vừa mất về gặp tổ tiên và gia nhập vào hàng các vị tổ tiên (những người vừa mới mất được lập bàn thờ riêng cho tới khi giỗ hết, cải táng sạch sẽ mới được phép thờ chung với tổ tiên. Sau lễ tang ma, lễ giỗ là nghi thức rất được chú trọng trong tâm lý người Việt.
Một biến thể của việc cúng giỗ là tục thờ “hậu” do nhà chùa hay đình làng đảm nhiệm. Trong trường hợp này người quá cố đã cúng tiền hay ruộng vào chùa hay đình để được hưởng lễ vật vào những ngày kỵ nhật.
Vì kính trọng tổ tiên, người Việt coi việc tang ma là trọng sự, gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên.
Ngày giỗ (kỵ nhật) là ngày kỷ niệm ngày mất của người thân trong gia đình hàng năm thường được tính theo âm lịch (hay còn gọi là ngày ta). Trong các ngày giỗ có ba ngày chú ý nhất: tiểu tường (giỗ đầu), đại tường (giỗ hết), trừ phục (lễ cởi bỏ đồ tang). Các ngày giỗ thường kỳ trong các năm sau được coi là cát kỵ (giỗ lành).
Trước lễ Tiểu tường, nhiều gia đình còn làm lễ Tiên thường (cáo giỗ) nhằm xin phép Thổ công để linh hồn người đã mất trở về gia đình nhận giỗ. Đồ lễ cúng trong giỗ đầu và giỗ hết phải chuẩn bị rất chu đáo. Theo quy định xưa, vào ngày giỗ đầu, trang phục tang lễ mũ gậy, áo xô lại được con cháu mang ra mặc. Đồ mã được gửi cho người chết cũng theo quy định: ở lễ tiểu đường đó là “mã biếu” vì người chết phải sử dụng để biếu các ác thần mong tránh sự quấy nhiễu (dân gian quan niệm cõi âm như cõi trần), ở lễ Đại tường và lễ Trừ phục (một ngày tốt được chọn sau lễ Đại tường để đốt bỏ tang phục) đồ mã còn cần nhiều hơn: mọi vật dụng sinh hoạt cho người chết ( quần áo, giầy dép, xe cộ), thậm chí cả các hình nhân bằng giấy để xuống cõi âm phục vụ cho họ. Sau khi hóa (đốt) những đồ mã này, đổ một chén rượu lên đống tàn vàng để vật mã trở thành vật thật, tiền thật dưới cõi âm. Người ta còn hơ một chiếc đòn gánh, gậy trên ngọn lửa hóa vàng, hoặc dựng một cây mía bên cạnh với lời giải thích “để các cụ gánh vác về”.
Gia tộc cũng có những qui định tín ngưỡng cho việc thờ cúng Thủy tổ dòng họ. Mặc dù đã qua nhiều đời nhưng ngày giỗ họ vẫn được lưu truyền nhờ việc ghi chép gia phả. Trong ngày giỗ Thủy tổ, tất cả con cháu trưởng các chi, ngành, nhánh buộc phải có mặt. Các con cháu khác tùy vào hoàn cảnh mà mang đồ tới góp giỗ. Lễ giỗ Tổ được tổ chức chu đáo và duy trì đều đặn hàng năm.
Bên cạnh các nghi lễ cúng tế trong gia đình và gia tộc còn phải kể thêm vào hệ thống nghi thức tế lễ tổ tiên một hình thức Tảo mộ. Ngoài việc đắp thêm mộ trong ba ngày (sau khi người thân chết), các gia đình, dòng họ thường đi thăm mộ, cúng tế sửa sang mồ mả vào dịp Tết Thanh minh tháng ba. Việc cúng tế tại mộ thường diễn ra đơn giản hơn nhiều so với cúng tại nhà, nhưng trước khi cúng trước mộ người thân người ta phải khấn cáo xin phép thổ công. Thăm nom sang sửa mồ mả tổ tiên, một mặt là hình thức thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu, mặt khác bởi quan niệm mồ mả vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của cả gia đình, gia tộc. Người Việt cho rằng, nếu vị trí đặt mồ mả không tốt, hướng không đúng thì con cháu làm ăn sẽ lụi bại, không thể nào phát triển được.

Lễ giỗ tổ Hùng vương
 Nghi thức tế tự của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên gồm ba bộ phận, thứ nhất là tế tự tại gia đình, thứ hai tế tự tại làng xóm (chủ yếu là tín ngưỡng thờ Thành hoàng) và thứ ba tế tự quốc gia. Người Việt luôn tôn thờ công đức của cha ông, tộc họ, những người đã khuất cùng huyết thống, đồng thời tôn thờ tất cả những người có công với nước, với xóm làng, những anh hùng dân tộc, anh hùng văn hóa. Cũng trong hệ thống ấy, với người Việt Nam tự bao đời nay ngày giỗ tổ Hùng vương luôn được coi trọng, đó là sự tưởng nhớ, là sự trở về với cội nguồn của dân tộc. Từ truyền thuyết bào thai trăm trứng đến sự tích Hùng Vương, người Việt đã dựng lên cho ông Tổ của mình một lý lịch hoàn chỉnh, có cả ngày mất (kỵ). Theo Toan Ánh, “trước đây hàng năm tại đền vua Hùng ở làng Cổ tích, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, có tổ chức quốc tế và có đại diện của triều đình tới đứng chủ tế trong ngày giỗ. Dân chúng các nơi kéo về đền Hùng lễ tổ và ngay cả các tỉnh cũng có tế vọng vua Hùng”. Vì thế, đó là ngày giỗ quan trọng nhất của người Việt Nam:

Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba
Mùng Mười tháng Ba hàng năm đã trở thành ngày giỗ của vua Hùng, thành ngày hội tụ con cháu khắp mọi miền đất nước hướng về đất Tổ. Có thể nói ngày giỗ tổ Hùng Vương là sự phát triển cao có tính chất trìu tượng hóa ý thức về cội nguồn, bắt rễ sâu xa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở làng xã, trong gia đình và gia tộc. Triết lý cội nguồn trên phạm vi quốc gia ấy cũng đã đóng góp một phần quan trọng trong việc củng cố về mặt lý luận cho sự liên kết các quan hệ máu mủ thân tộc. Nhà và nước, nước và nhà, nước mất thì nhà tan, nước giàu thì dân mạnh. Chính vì thế tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam từ gia đình, dòng họ đến Tổ quốc đã không ngừng được giữ gìn bảo tồn qua các bước thăng trầm của lịch sử, bất chấp mọi mưu đồ, xâm lược đồng hóa của giặc ngoại xâm.
Trong các hệ thống tín ngưỡng tôn giáo bản địa của nước ta thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được coi là quan trọng bậc nhất. Ở đó ta thấy được niềm tin của con người vào một thế giới bên kia, nơi có một cuộc sống giống như thế giới mà chúng ta đang sống. Thông qua các nghi lễ thờ cúng con người mong muốn có được sự che trở, giúp đỡ của tổ tiên, lúc nào trong tâm tưởng họ tổ tiên cũng luôn theo sát. Chính niềm tin đó đã giúp họ sống tốt hơn, có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, đồng thời cũng giúp mọi người xích lại gần nhau hơn. Mỗi dịp giỗ chạp là lúc những người trong gia đình dòng họ có điều kiện để gặp gỡ thăm hỏi nhau, tạo thêm sự thân thiết đoàn kết, gắn bó.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam trong quá trình hình thành, tồn tại của nó đã góp phần tạo ra những giá trị đạo đức truyền thống như lòng hiếu thảo, lòng nhân ái, tính cộng đồng, tính cần cù, sáng tạo, lòng hiếu học, lòng yêu nước. Vì thế tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên như đã khái quát trên có thể nói là vĩnh hằng cùng với sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Hiếu với tổ tiên, ông, bà, cha, mẹ còn được nâng lên cao hơn, đẹp hơn, đó là “hiếu với dân, với nước”. Trong đời sống xã hội hiện đại, đã có thời kỳ người ta nghĩ đơn giản rằng xã hội càng phát triển, khoa học kỹ thuật càng tiến bộ thì con người càng bớt đi niềm tin vào thế giới vô hình, con người sẽ sống tỉnh táo hơn, khoa học hơn. Có lẽ điều này chỉ đúng một phần, vì thế khi thế giới càng chia nhỏ rành mạch, con người càng mở rộng tầm nhìn thì những khoảng trống, những điều chưa thể giải thích càng lớn. Đó là điều bí ẩn của thế giới tâm linh, đặc biệt là mối liên hệ ràng buộc vô hình nào đó giữa những người cùng dòng máu. Vì thế càng ngày tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên càng có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của mỗi người Việt Nam, nó là một trong những nhân tố góp phần quan trọng để bảo tồn và duy trì văn hóa truyền thống. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tập tục mang đậm nét văn hoá của người Việt.
Theo Đinh Kiều Nga/btgcp.gov.vn
Lần cập nhật cuối ( Thứ hai, 29 Tháng 8 2022 00:21 )
 

KIÊNG 'THÁNG CÔ HỒN', KINH DOANH NGƯNG TRỆ

Email In PDF.
(VEF.VN) - Hàng loạt các lĩnh vực kinh doanh như ôtô xe máy, bất động sản vốn đã gặp khó khăn từ nhiều ngày nay lại thêm khó khăn lớn khi tháng "cô hồn" đến.
1- Xe máy, ôtô than ngắn thở dài
Một nhân viên bán hàng tại đại lý Honda Kwaitexco (Ngụy Như KonTum, Thanh Xuân, Hà Nội) cho biết, lượng khách hàng mua xe giảm mạnh trong hai tuần cuối tháng  8. Lý do: khách kiêng mua sắm do thời điểm này trùng với hai tuần đầu tháng 7 âm lịch, mà dân gian quen gọi là "tháng cô hồn". Nửa tháng qua, mỗi ngày chỉ lác đác vài người đến xem và tìm hiểu về các chương trình khuyến mãi, giảm giá xe. Người mua rất thưa vắng.
Tháng cô hồn năm nào cũng là thời điểm nhu cầu xe máy giảm thấp nhất trong năm, vì người tiêu dùng Việt Nam khá mê tín, cho rằng mua xe trong thời gian này dễ gặp xui xẻo, ra đường dễ bị tai nạn... Chính vì vậy, không thật sự bức thiết, thì phần lớn người tiêu dùng thường chờ qua tháng 7 âm lịch mới mua sắm. Điều này khiến doanh thu của các đại lý xe máy giảm đi trông thấy.
Năm nay, do kinh tế khó khăn, người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu nên nhu cầu về xe máy đã giảm tới 40% so với các tháng trước. Bước sang "tháng cô hồn", doanh số còn giảm mạnh hơn. Một nhân viên kinh doanh xe máy tại đại lý Yamaha Hồng Hạnh trên đường Bà Triệu (Hà Nội) cho biết, trong 2 tuần qua số lượng xe máy bán ra giảm 30% so với hai tuần trước đó.
Anh Hoàng Mạnh Khánh, Giám đốc Công ty TNHH Vượng Phát (Hà Nội) - chuyên phân phối xe máy nhập khẩu thương hiệu Sachs (CHLB Đức) - cho biết nói rằng tính doanh số bán xe trong tháng 7 âm thì dự báo rất xấu. Các tháng trước tiêu thụ xe Sachs đạt trên 100 xe thì qua tháng 7 âm lịch, số lượng bán ra dự kiến không đạt con số trên.

Nhiều đại lý xe máy cho biết khách hàng chỉ đến xem
chứ không mua do kiêng tháng cô hồn (ảnh minh họa - Tuổi trẻ)
Tuy nhiên, kinh doanh thường tính theo dương lịch. Năm nay tháng 7 âm lịch bắt đầu từ ngày 17/8 và kéo dài tới 15/9. Vì thế, nhiều người tránh "tháng cô hồn" nên đã mua xe vào hai tuần đầu tháng 8 và hai tuần cuối tháng 9 dương lịch. Đây cũng là thời điểm học sinh tựu trường nên nhu cầu về xe máy tăng, do vậy nếu tính theo dương lịch thì có thể nói tiêu thụ xe không giảm mà còn tăng chút ít so với những tháng trước đó, anh Khánh nói.
Dạo qua một vòng các cửa hàng, đại lý xe máy dịp cuối tháng 8 đều thấy, bảo hành, bảo dưỡng, thay thế phụ tùng đang là công việc chính của phần lớn các đại lý cửa hàng xe máy. Kinh doanh rất chậm nên nhiều nhân viên bộ phận kinh doanh đang phải "ngồi chơi xơi nước". Đây là tình cảnh chung của các đại lý bán xe máy tại Hà Nội trong gian đoạn này.
Các đại lý thì cho biết họ như "ngồi trên lửa", bởi lượng xe nhận về đang chất kín kho, trong khi mất tới 4 tuần lên tiếp nhu cầu giảm mạnh, xe đã giảm giá hết cỡ cũng chẳng bán được. Đại diện công ty xe máy Kường Ngân, nhà phân phối chính thức của nhiều hãng sản xuất, cũng cho hay các đại lý xe máy hiện nay đang đứng giữa nhiều "gọng kìm" khi vẫn phải nhập đều sản phẩm từ nhà sản xuất rồi lưu kho, trong khi doanh số bán hàng liên tục sụt giảm mạnh. DN bị ràng buộc bởi điều kiện nếu không nhập hàng đều thì hãng sẽ không cung cấp sản phẩm nữa.
Giá xe máy trên thị trường thời điểm vừa qua có nâng lên, nhưng nay lại phải hạ xuống như cũ.
Chẳng hạn mẫu xe Honda Lead cuối tháng 7, đầu tháng 8 dương lịch, một số cửa hàng đã nâng lên thêm 500.000 đồng/xe, từ 35-36 triệu đồng (giá đề xuất 35,5-36,5 triệu đồng), nay phải giảm về 34,5-35,5 triệu đồng. Honda Air Blade cũng tương tự, giá đầu tháng là 36,5-37 triệu đồng (giá đề xuất 38 triệu đồng), thì 2 tuần cuối tháng 8 còn 36,2 triệu đồng. Một số mẫu xe của Yamaha như Nouvo LX 135cc, Cuxi, Mio Classico... lại giảm từ 1 đến 3 triệu đồng/xe. Giá hiện tại của những chiếc xe này lần lượt là khoảng 33,4 triệu, 30 triệu, và 22,5 triệu đồng.

Các đại lý cho biết, mặc dù liên tục đưa ra các chương trình khuyến mãi như hỗ trợ lệ phí trước bạ, tặng sản phẩm, dịch vụ... cho khách hàng mua xe, song cũng không cải thiện được tình hình.
Khó khăn hơn xe máy là kinh doanh ôtô. Theo ông Hà Minh Tuấn, Giám đốc Công ty kinh doanh xe cũ Anycar, tiêu thụ xe ôtô cũ giảm thấp trong 7 âm lịch. Đây là thời điểm bán hàng kém nhất trong năm bởi nhiều khách hàng có ý định mua xe đều đã tạm dừng hoặc mua trước đó tránh hoàn toàn "tháng cô hồn", chính vì vậy mà doanh số bán của các cửa hàng đều giảm.
Tiêu thụ ôtô mới cũng nằm trong tình trạng chung. Đã 2 tuần nay nhiều đại lý của các hãng Ford, Toyota, Honda, GM... tại Hà Nội cho biết họ chỉ bán được vài chiếc, thậm chí có đại lý còn chẳng được chiếc nào. Các đại lý ôtô khi được hỏi đều lắc đầu ngán ngẩm. Từ đầu năm tới nay doanh số giảm trên 40%, nay vào "tháng cô hồn" chẳng còn biết phải chống đỡ như thế nào.
Tháng 8 cũng là thời điểm "bão" giảm giá ôtô, mà mạnh nhất là giảm tới hơn 200 triệu đồng của Renault Việt Nam; hay 100 triệu đồng cho một số mẫu xe của Trường Hải Auto... nhưng do sức mua thấp, nguy cơ sụt giảm doanh thu ào tháng 7 âm lịch khó tránh khỏi.
Tuy nhiên cũng giống như xe máy, nếu nhìn vào doanh số thì chưa thể nói là có giảm hay không bởi chỉ cần nhu cầu tăng cao vào nửa đầu tháng 8 và cuối tháng 9 dương lịch bù lại thì không vấn đề gì. Người ta sợ nhất là tháng 7 âm lịch trùng với một tháng dương lịch nào đó thì doanh số chắc chắn sẽ giảm thê thảm.

Tại phía Bắc, bất động sản bất động khi tháng 7 âm tới (ảnh minh họa - Đô thị)
2- Bất động sản chật vật
Tháng 7 âm lịch cũng là tháng đại kỵ của dân kinh doanh địa ốc. Nhiều DN cho biết, bước vào "tháng cô hồn", việc kinh doanh gần như đình đốn.
Theo phản ánh của nhiều sàn giao dịch bất động sản, hai tuần cuối tháng 8 này là thời đểm kết quả giao dịch tệ hại nhất của thị trường Hà Nội kể từ đầu năm đến nay. Mặc dù lãi suất đã hạ, đối tượng cho vay mua nhà đất được nới rộng, nhưng thị trường vẫn gần như không có chuyển biến.
Nhiều ý kiến cho biết, thị trường bất động sản đã ảm đạm trong suốt thời gian dài nên tháng 7 âm càng khó có hy vọng và vẫn phải tiếp tục chứng kiến xu hướng giảm giá bán tại tất cả các phân khúc.
Ông Huỳnh Minh Thành, Phó tổng giám đốc Hanco 9, nhận định, nhà đất vốn là tài sản có giá trị lớn nên người dân thường không vội vàng quyết định mua, nhất là trong "tháng cô hồn". Sản phẩm khó tiêu thụ cộng với khó khăn về tài chính càng làm cho các chủ đầu tư khó khăn thêm.
Các giao dịch giảm mạnh là thông tin từ một nhân viên giao dịch Công ty địa ốc Xanh (Kim Mã, Hà Nội). Theo nhân viên này, công ty đang mở bán một số căn hộ tại tầng 5 tòa nhà Phú Gia đường Nguyễn Huy Tưởng (Hà Nội). Nhà đã gần hoàn thành phần thô, dự kiến cuối năm 2013 giao cho khách hàng. Một số khách cũng tìm đến, nhưng chỉ đặt cọc giữ chỗ chứ nhất quyết không làm hợp đồng cũng không trả tiền trong tháng 7 âm lịch, chờ hết tháng mới tính chuyện.
Nhà là tài sản lớn và nhiều người không thích rước vận rủi khi mua nhà mới, chính vì vậy người ta kiêng cữ rất kỹ càng, chọn ngày đẹp, giờ đẹp để nhận, tất nhiên tháng cô hồn chẳng ai muốn làm việc này cả - nhân viên này ngao ngán.
Hiện có hai xu hướng đang diễn ra trên thị trường bất động sản. Một số DN thì án binh bất động chờ qua thời gian này mới tiếp tục. Ông Nguyễn Vĩnh Minh Thành, Tổng giám đốc Công ty CP An cư lạc nghiệp, chia sẻ, thời gian này, công ty chủ yếu đưa khách hàng đi tham quan dự án, sau tháng 7 âm lịch mới chính thức mở bán. Một số công ty bất động sản thì tận dụng thời gian này để tổ chức hội thảo kêu gọi đầu tư, giới thiệu dự án.
Tuy nhiên cũng có không ít DN lại tung chiêu khuyến mãi, hạ giá bán để kích cầu, bất chấp mọi e ngại. Tại TP.HCM, công ty địa ốc Khang Gia chọn ngày mùng 9/7 âm lịch (tức ngày 25/8) mở bán 321 căn hộ block 1 chung cư Khang Gia tại quận Gò Vấp. Giá căn hộ hoàn thiện thấp nhất 537 triệu đồng, tương đương 11,2 triệu đồng mỗi m2.
Công ty cổ phần Địa ốc Sài Gòn Thương Tín (Sacomreal) chọn thời gian 9-15/7 âm lịch (tức 25-31/8) để mở đợt bán hàng lớn nhất trong năm. Cả 10 dự án được chào bán thời gian này gồm HUD, Biconsi, Đại Nam, Mỹ Phước 3, Nhà phố Gò Dầu, New Sai Gon, Belleza, Sealinks, Everrich, Carillon. Để kích cầu, Sacomreal áp dụng chính sách giảm 4-20% giá thành và tặng sản phẩm trị giá cả trăm triệu đồng.
Còn tại Hà Nội, Công ty Cổ phần Đầu tư dầu khí Toàn cầu (GP-Invest) tiếp tục mở bán căn hộ dự án Nam Đô Complex tại số 609 Trương Định, quận Hoàng Mai với giá 22 triệu đồng/m2 (chưa gồm VAT). Hay như Công ty CP Khách sạn và Dịch vụ Đại Dương cũng vừa phối hợp với Công ty Cổ phần Đất Xanh miền Bắc đã tổ chức mở bán căn hộ dự án Star City Nha Trang với giá từ 1,2 tỷ đồng/căn.
Không chỉ mở bán, giảm giá mà khách hàng còn dược hưởng không ít ưu đãi khi mua nhà thời điểm này. Một số chủ đầu tư đã cung cấp thêm lựa chọn bàn giao thô hoặc gói nội thất liền tường cơ bản thay vì hoàn thiện đầy đủ, nhằm giảm giá bán lên tới 30%. Đồng thời tận dụng các đợt giảm lãi suất liên tiếp gần đây, đa số chủ đầu tư cam kết hỗ trợ người mua một phần lãi suất vay mua nhà...
Phân tích về việc này, nhiều chủ đầu tư cho biết họ không lo lắng đến tác động của tháng 7 âm lịch đối với thị trường bất động sản vì các sản phẩm chào bán hiện nay cơ bản là những sản phẩm phục vụ nhu cầu thật của người dân. Mà những người có nhu cầu thật thường quyết định mua lúc có nguồn tài chính phù hợp chứ ít khi quan tâm đến thời điểm nào thì nên thực hiện giao dịch.
Tuy nhiên, theo một số chuyên gia, việc mở bán, giảm giá trong tháng 7 âm lịch được xem là ngược với thị trường truyền thống. Lý do các DN làm vậy, có lẽ là họ đã quá mệt mỏi, không thể cầm cự lâu hơn được nữa. Vì vậy, đẩy hàng đi được xem là giải pháp để cắt lỗ, giải tỏa phần nào chi phí tài chính và có điều kiện để cơ cấu lại các khoản nợ.
Mặc dù vậy, thống kê tại một số sàn giao dịch cho thấy, hai tuần qua số lượng giao dịch căn hộ giá rẻ tại thị trường phía Nam có tăng, nhưng với khu vực phía Bắc vẫn chìm trong ảm đạm, giao dịch thành công trong tháng 7 âm lịch rất thấp và kinh doanh đang bị ngưng trệ.
Trần Thuỷ
Lần cập nhật cuối ( Thứ hai, 29 Tháng 8 2022 00:08 )
 

TẠI SAO CỬA ĐỊA NGỤC MỞ TRONG 'THÁNG CÔ HỒN'?

Email In PDF.
Người Việt Nam và vài nước có sự tương đồng về văn hóa quan niệm rằng, trong tháng 7 âm lịch, cửa địa ngục mở ra, giải phóng cho ma quỷ.
1- Chuyện quỷ đói được siêu thăng
Ở Việt Nam, rằm tháng bảy với người miền Bắc chủ yếu được coi là ngày xá tội vong nhân, còn với người miền Nam lại có ý nghĩa chính là Vu lan báo hiếu. Tuy cùng một ngày nhưng hai lễ này mang ý nghĩa khác nhau.
Truyền thuyết về Vu lan liên quan đến tôn giả Mục Kiền Liên, một trong các đại đệ tử của đức Phật Thích Ca, một người sớm đắc quả A La hán, thoát khỏi vòng luân hồi. Không còn bị vô minh che mắt, ngài có thể nhìn thấu hàng vạn tiền kiếp của mình cũng như mọi điều trong các cõi. Là một người con chí hiếu, đức Mục Kiền Liên muốn nhìn xem người vợ đã khuất của mình bây giờ đang ở cảnh giới nào.
Sinh thời, bà Thanh Đề mẹ ngài là kẻ sống bạc ác, cay nghiệt, vì vậy ngài biết mẹ mình sẽ bị đọa xuống địa ngục. Thế nhưng tuy đã tìm ở nhiều tầng địa ngục, Mục Kiền Liên vẫn chưa thấy mẹ. Chỉ đến khi soi thiên nhãn đến tầng ngục sâu nhất, dành cho những người sinh thời phạm những tội ác ghê gớm nhất, ngài mới thấy mẹ mình đang bị đày đọa ở đó trong hình hài của ngạ quỷ (quỷ đói) và phải treo ngược người.
Đau lòng xót ruột, Mục Kiền Liên hóa phép ra mâm cỗ thật ngon dâng mẹ. Bà mẹ đói khát vội vàng vồ lấy thức ăn, nhưng hễ đưa đến gần miệng là lập tức biến thành lửa đỏ. Mục Kiền Liên dù tu hành đắc đạo, nhiều phép thần thông những chẳng thể làm gì giúp người mẹ đang phải trả giá cho tội lỗi của mình. Ngài bèn trở về cầu cứu Phật Thích Ca.


Ngạ quỷ đói khát, lửa đầy miệng do những tội nghiệt lúc sinh thời.
Đức Phật nói, một mình Mục Kiền Liên không thể giúp giảm nhẹ nghiệp quả cho bà Thanh Đề, mà phải nhờ đến uy lực của nhiều tăng sĩ tu hành tinh tiến cùng cầu độ cho bà từ ngày mùng 4 đến 15 tháng 7, đồng thời phải làm cơm chay cúng dường tăng chúng, bố thí, làm việc thiện giúp đỡ chúng sinh. Làm vậy, theo đức Phật, không những có thể cứu bà Thanh Đề thoát kiếp ngạ quỷ mà còn giúp bà hưởng phúc.
Mục Kiền Liên làm theo, quả nhiên bà mẹ được siêu thăng. Phật dạy, những người khác muốn báo hiếu cho cha mẹ đã khuất cũng có thể làm theo cách này. Từ đó, ngày rằm tháng 7 trở thành ngày lễ Vu lan (từ gốc tiếng Phạn là Ullambana, nghĩa là giải thoát khỏi sự khốn khổ vì bị treo ngược, ý nói cảnh đọa đày của mẹ Mục Kiền Liên). 
Để người thân đã khuất giảm tội nghiệt là hưởng phúc lành, nhiều gia đình mời tăng sĩ về nhà lập đàn cầu siêu rất linh đình. Tuy nhiên, theo kinh Địa Tạng, lợi ích của việc này có 7 phần thì 6 phần là cho người sống, chỉ 1 phần cho người chết. Việc người chết hưởng phúc hay chịu khổ vẫn tùy thuộc chủ yếu vào việc họ làm lúc sinh thời.
Ngoài ra, nếu chỉ ỷ lại cho tăng ni đọc kinh hộ thì cũng ít tác dụng nếu như người nhà không làm các việc thiện, kiểu như làm công đức hộ cho người chết, thì cũng ít kết quả. Nếu họ làm được nhiều việc thiện thì cũng không nhất thiết mời tăng ni về tụng kinh, vì bản thân những việc thiện đó sẽ được hồi hướng cho người chết để hóa giải một phần nghiệp chướng của họ.
2- Ngày mở cửa địa ngục
Về sự tích ngày xá tội vong nhân, ngay trong quan niệm của Phật giáo cũng có 2 truyền thuyết. Có chuyện kể rằng ngày trước, quỷ thường hay quấy phá, làm hại người, khiến họ không thể yên ổn làm ăn, khổ quá bèn kêu lên Phật. Đức Phật giúp con người trục quỷ, đày chúng xuống địa ngục. Thế nhưng vì lượng cả từ bi, ngài cho phép chúng trở lại dương gian mỗi năm một lần vào dịp rằm tháng 7.
Do vậy, ngày đó, con người thường tránh cho trẻ nhỏ hay người yếu bóng vía ra đường, sợ quỷ bắt mất, đồng thời làm các phép trừ quỷ như rắc vôi bột, treo vài nhánh tỏi trước nhà… Việc cúng thực phẩm, tiền vàng, quần áo cũng là để cho quỷ khỏi quấy phá.
Một chuyện khác kể rằng, một đại đệ tử của Phật là đức A Nan Đà một buổi tối đang ngồi trong tịnh thấy thì thấy một con ngạ quỷ người gầy quắt, cổ dài, miệng nhả ra lửa bước vào, nói rằng 3 ngày nữa A Nan Đà sẽ chết và cũng trở thành quỷ miệng lửa (diệm khẩu) như nó. Quỷ nói:  “Nếu muốn tránh thì ông phải bố thí cho lũ ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc đồ ăn, và cúng dường Tam bảo giúp chúng tôi, để chúng tôi được tái sinh vào cõi trên, thì ông cũng được tăng thọ”.

Tôn giả A Nan Đà đem chuyện này nói với đức Phật. Phật bèn làm một bài chú tên là “Cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ đà la ni”, đem tụng trong lễ cúng tam bảo để cầu siêu thoát cho quỷ đói miệng lửa. Về sau, dân gian hiểu rộng ra thành lệ cúng và cầu phúc cho vong nhân nói chung, nhất là những cô hồn không có thân nhân cúng tế, phải vật vờ không nơi nương tựa. Lễ cúng vốn mang tên “phóng diệm khẩu”, tức thả quỷ miệng lửa, dần dần thành xá tội vong nhân – tha tội cho mọi người đã chết.
Xá tội vong nhân trong quan niệm của Đạo giáo dựa trên truyền thuyết cho rằng, Diêm Vương ra lệnh bắt đầu mở cửa địa ngục – Quỷ môn quan -  từ ngày 2/7, để ma quỷ được trở lại cõi trần, và đến rằm tháng 7 thì tất cả ma quỷ đều phải trở về, cửa địa ngục đóng lại. Trong dân gian Việt Nam, các quan niệm, truyền thuyết của Phật giáo và Đạo giáo hòa lẫn với nhau. Vì vậy, người ta không chỉ đề phòng ma quỷ trong ngày rằm tháng 7 mà gần như suốt nửa đầu tháng, nên tháng 7 được gọi là tháng cô hồn. Họ cho rằng đây là tháng quỷ ma đầy đường nên con người hay gặp
chuyện đen đủi.
Cũng vì cho rằng quỷ ma được thả ra suốt nửa đầu tháng 7, nhiều gia đình Việt Nam không đợi đến rằm mới cúng, mà cúng trước khá lâu. Có nhà cúng các cô hồn trước, sau vài ngày mới cúng tổ tiên nhà mình, là để cho quỷ đói khỏi xông vào cướp đồ ăn mà mình dâng bố mẹ, ông bà.
Tuy nhiên, với nhiều gia đình Việt, việc cúng các cô hồn vất vưởng đói khát, không nơi nương tựa không phải chỉ để khỏi bị quấy phá, mà vì muốn làm phúc, giúp những cô hồn ít ra cũng có một ngày được no nê, đỡ tủi phận khi những vong hồn khác được con cháu mời về dâng tiến đồ ăn, còn mình không ai đoái tưởng. Đó là ý nghĩa mang tính nhân văn rất cao trong văn hóa Việt, cũng như quan niệm về ngày xá tội: con người dù đã gây ra những tội ác gì thì trong quá trình chịu trừng phạt, quả báo, cũng có được một ngày xá tội, để đỡ khổ cực, đau đớn…
Theo Xzone
Lần cập nhật cuối ( Chủ nhật, 28 Tháng 8 2022 17:24 )
 

ĐỌC LẠI NGUỒN GỐC NGÀY LỄ VU LAN

Email In PDF.
(Dân trí) - Không biết tự bao giờ, ngày lễ Vu Lan đã trở thành ngày trọng đại không thể thiếu trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam. Nguồn gốc của ngày lễ có người biết, có người chưa biết nhưng ý nghĩa nhân văn sâu sắc của ngày này thì ai cũng thấu tỏ.
1- Sự tích lễ Vu Lan

Theo kinh Vu Lan, ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện được nhiều phép thần thông. Mẫu thân ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ ra sao nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm. Thấy mẹ mình vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sinh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Nhưng do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình để tránh không cho các cô hồn khác đến tranh cướp. Vì vậy khi bát đưa lên miệng, thức ăn đã hóa thành lửa đỏ.
Mục Kiền Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày Rằm tháng bảy là ngày thích hợp để cung thỉnh chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó".

Vu Lan ăn chay...

... và làm từ thiện. (ảnh: trao quà cho trẻ em mồ côi ở huyện Đại Lộc - Quảng Nam)
Làm theo lời Phật, Mục Kiền Liên đã giải thoát được mẹ. Phật cũng dạy rằng chúng sinh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp). Từ đó ngày lễ Vu Lan ra đời.
2- Bông hồng cài áo
Tháng Bảy, mùa Vu Lan về cùng với ngày Rằm xá tội vong nhân. Ngày nay trong lễ này, người Việt ta có một "quy ước": nếu ai đó còn mẹ sẽ được cài một bông hoa màu hồng lên áo. Ai đã mất mẹ thì cài hoa trắng. Người cài hoa trắng sẽ thấy như một sự nhắc nhở, sẻ chia, không bao giờ quên ơn cha mẹ. Người được hoa hồng sẽ sung sướng vì biết rằng mình còn có mẹ.

Hoa hồng đỏ cho những ai còn có mẹ trên đời

Hồng trắng ngậm ngùi cho những ai không còn mẹ
Bông hồng cài áo thực ra là tên một đoạn văn viết về Mẹ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh và cũng là tên một ca khúc do nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ sáng tác trong thập niên 1960, lấy ý từ bài viết trên.
Theo Hòa thượng Thích Nhất Hạnh, bông hoa hồng trong cách nhìn của người Việt là loài hoa thông dụng và dễ thương, được nhiều người yêu thích nhất. Loài hoa này còn mang quy ước biểu hiện của tình yêu thương của loài người. Chính vì thế Hòa thượng đã chọn bông hoa hồng làm biểu tượng cho lễ Vu Lan báo hiếu của nhà Phật và viết ấn phẩm “Bông Hồng Cài Áo” vào tháng 8 năm 1962.
Để làm mọi người hiểu hơn về điều này, chính bản thân Hòa thượng đã làm lễ cài Bông hồng đầu tiên cho tăng ni và phật tử ở chùa Pháp Hội, Sài Gòn. Từ đó các chùa và các tổ chức gia đình phật tử đã nhân rộng thành lễ cài Bông hồng trong dịp lễ Vu Lan báo hiếu như hiện nay.
3- Ý nghĩa nhân văn

Không kìm được nước mắt trong ngày Vu Lan
Ngày lễ Vu Lan là dịp “nhắc nhở” các thế hệ con cháu chúng ta nhớ tới công ơn dưỡng dục sinh thành của cha mẹ, ông bà, tổ tiên cũng như những đóng góp to lớn của các anh hùng dân tộc, những người có công với đất nước. Ðồng thời giúp chúng ta tiếp cận được những ý nghĩa giáo dục đầy nhân bản của văn hoá Phật giáo đó là “Từ, bi, hỷ, xả”, “vô ngã, vị tha”, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”.
Một mùa Vu Lan nữa lại về, nhắc nhở mỗi con người chúng ta bài học sâu sắc về chữ Hiếu thiêng liêng, đừng để đến khi cài hoa trắng lên ngực mới hối hận vì chưa tròn chữ Hiếu.
LỜI BÁI HÁT "BÔNG HỒNG CÀI ÁO"
Một bông Hồng cho em Một bông Hồng cho anh Và một bông Hồng cho những ai Cho những ai đang còn Mẹ Đang còn Mẹ để lòng vui sướng hơn Rủi mai này Mẹ hiền có mất đi Như đóa hoa không mặt trời Như trẻ thơ không nụ cười ngỡ đời mình không lớn khôn thêm Như bầu trời thiếu ánh sao đêm Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên Là bóng mát trên cao Là mắt sáng trăng sao Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối Mẹ, Mẹ là lọn mía ngọt ngào Mẹ, Mẹ là nải chuối buồng cau Là tiếng dế đêm thâu Là nắng ấm nương dâu Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời Rồi một chiều nào đó anh về nhìn Mẹ yêu, nhìn thật lâu Rồi nói, nói với Mẹ rằng "Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không ?" Biết gì ? "Biết là, biết là con thương Mẹ không ?" Đóa hoa màu hồng vừa cài lên áo đó anh Đóa hoa màu hồng vừa cài lên áo đó em Thì xin anh, thì xin em Hãy cùng tôi vui sướng đi
Nguyễn Hùng
Lần cập nhật cuối ( Chủ nhật, 28 Tháng 8 2022 17:16 )
 
Trang 148 trong tổng số 169 trang.
Bạn đang ở: Trang chủ Tin tức - Sự kiện