Lịch âm dương

Xem tin theo ngày

< Tháng 12 2024 >
T2 T3 T4 T5 T6 T7 CN
            1
2 3 4 5 6 7 8
9 10 11 12 13 14 15
16 17 18 19 20 21 22
23 24 25 26 27 28 29
30 31          

Thống kê truy cập

mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counterHôm nay4548
mod_vvisit_counterHôm qua3489
mod_vvisit_counterTuần này22063
mod_vvisit_counterTuần trước48969
mod_vvisit_counterTháng này146594
mod_vvisit_counterTháng trước291538
mod_vvisit_counterTất cả3092820

Có: 12 khách trực tuyến

Trao Đổi

DANH HIỆU BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG

Email In PDF.

ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI 

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


Pháp lệnh số: 05/2012/UBTVQH13

Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2012

PHÁP LỆNH

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;

Căn cứ Nghị quyết số 23/2012/QH13 ngày 12 tháng 6 năm 2012 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013, điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII;

Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”,

Điều 1.

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”:

1. Điều 2 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 2

Những bà mẹ thuộc một trong các trường hợp sau đây được tặng hoặc truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”:

1. Có 2 con trở lên là liệt sĩ;

2. Chỉ có 2 con mà 1 con là liệt sĩ và 1 con là thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;

3. Chỉ có 1 con mà người con đó là liệt sĩ;

4. Có 1 con là liệt sĩ và có chồng hoặc bản thân là liệt sĩ;

5. Có 1 con là liệt sĩ và bản thân là thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.”

2. Điều 4 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 4

Người được tặng hoặc truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” được tặng Bằng, Huy hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và được hưởng các chế độ ưu đãi sau đây:

1. Được tổ chức lễ tặng hoặc truy tặng;

2. Được hưởng khoản tiền một lần và được hưởng chế độ ưu đãi theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng;

3. Khi từ trần được tổ chức lễ tang trang trọng;

4. Kinh phí tổ chức lễ tặng hoặc truy tặng, tổ chức lễ tang do Nhà nước bảo đảm.”

Điều 2.

Thay cụm từ “Bằng và Huy chương” tại Điều 6 của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” bằng cụm từ “Bằng, Huy hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng””.

Điều 3.

1. Pháp lệnh này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2013.

2. Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này./.

 

TM. ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
CHỦ TỊCH
(Đã ký)
Nguyễn Sinh Hùng


CHÍNH PHỦ

-------
Số: 56/2013/NĐ-CP

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

----------------

Hà Nội, ngày 22 tháng 05 năm 2013

NGHỊ ĐỊNH
QUY ĐỊNH CHI TIẾT VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH PHÁP LỆNH

QUY ĐỊNH DANH HIỆU VINH DỰ NHÀ NƯỚC “BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG”

Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Luật thi đua, khen thưởng ngày 26 tháng 11 năm 2003 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng ngày 14 tháng 6 năm 2005;

Căn cứ Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” ngày 29 tháng 8 năm 1994; Pháp lệnh số 05/2012/UBTVQH13 ngày 20 tháng 10 năm 2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”;

Căn cứ Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng số 26/2005/PL-UBTVQH11 ngày 29 tháng 6 năm 2005; Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 ngày 16 tháng 7 năm 2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng;

Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng;

Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”,

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Nghị định này quy định chi tiết và hướng dẫn về đối tượng, chế độ ưu đãi, hồ sơ, trình tự, thủ tục đề nghị tặng hoặc truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.

Điều 2. Đối tượng được xét tặng hoặc truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng

1. Những bà mẹ thuộc một trong các trường hợp sau đây được xét tặng hoặc truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”:

a) Có 2 con trở lên là liệt sỹ;

b) Chỉ có 2 con mà 1 con là liệt sỹ và 1 con là thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;

c) Chỉ có 1 con mà người con đó là liệt sỹ;

d) Có 1 con là liệt sỹ và có chồng hoặc bản thân là liệt sỹ;

đ) Có 1 con là liệt sĩ và bản thân là thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.

Người con là liệt sỹ là người đã được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng “Tổ quốc ghi công”, bao gồm con đẻ, con nuôi theo quy định của pháp luật.

Người chồng là liệt sỹ là người đã được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng “Tổ quốc ghi công” mà bà mẹ là vợ của người đó.

Thương binh quy định tại Điểm b, Điểm đ Khoản 1 Điều này là người đã được cấp có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận thương binh, bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên, bao gồm cả người còn sống và người đã từ trần.

Trường hợp bà mẹ có chồng, con tham gia hàng ngũ địch nhưng bà mẹ chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thì vẫn được xem xét tặng hoặc truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước ‘‘Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.

2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định có trách nhiệm:

a) Tổ chức họp xét duyệt hồ sơ của từng trường hợp đề nghị tặng hoặc truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” với thành phần đại diện cấp ủy, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, quân sự, công an và các đoàn thể có liên quan;

b) Lập hồ sơ (03 bộ), ký Tờ trình kèm theo danh sách trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.

3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định có trách nhiệm:

a) Chỉ đạo cơ quan được giao tiếp nhận hồ sơ, tổ chức thẩm định theo quy định;

b) Ký Tờ trình kèm theo danh sách và hồ sơ (03 bộ) trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

4. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định có trách nhiệm:

a) Chỉ đạo cơ quan được giao tiếp nhận hồ sơ, tổ chức thẩm định theo quy định;

b) Ký Tờ trình kèm theo danh sách và hồ sơ (03 bộ) trình Thủ tướng Chính phủ.

5. Bộ Nội vụ trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định, có trách nhiệm thẩm định hồ sơ, trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước xem xét, quyết định tặng hoặc truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.

6. Một số quy định chung:

a) Thời gian xét tặng hoặc truy tặng danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” hàng năm được tiến hành 03 đợt vào các dịp: Ngày giải phóng miền Nam 30 tháng 4; ngày Quốc khánh 02 tháng 9 và Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 tháng 12;

b) Trường hợp người kê khai không lưu giữ được giấy tờ làm căn cứ xét duyệt theo quy định tại Khoản 1 Điều này thì có đơn gửi Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội xác nhận để làm căn cứ lập hồ sơ;

c) Trường hợp người con là thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên đang ở Trung tâm Điều dưỡng thương binh hoặc cư trú ở địa phương khác thì có đơn gửi Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi quản lý thương binh xác nhận để làm căn cứ lập hồ sơ;

d) Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, hợp lệ theo quy định, trong thời hạn 05 ngày làm việc, Ủy ban nhân dân cấp xét duyệt trả lại hồ sơ và thông báo lý do bằng văn bản. Trường hợp hồ sơ chưa rõ ràng thì yêu cầu kiểm tra, xác minh làm rõ.

Điều 6. Xử lý vi phạm

1. Tổ chức, cá nhân có hành vi giả mạo hồ sơ, xác nhận không đúng sự thực hoặc vi phạm quy định tại Nghị định này thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

2. Những trường hợp có kết luận của cấp có thẩm quyền là giả mạo, khai man thì bị tước danh hiệu, thu lại Bằng, Huy hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; truy thu số tiền ưu đãi đã nhận và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

3. Việc tước danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” thực hiện theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.

Điều 7. Tổ chức thực hiện

1. Bộ Nội vụ có trách nhiệm:

a) Chỉ đạo việc xét tặng hoặc truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”;

b) Tổ chức thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.

2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm:

a) Chỉ đạo ngành Lao động - Thương binh và Xã hội hoàn thiện hồ sơ, xét tặng hoặc truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” theo thẩm quyền;

b) Tổ chức thực hiện việc xác nhận liệt sỹ, thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định này.

3. Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan quân sự, công an phối hợp xét tặng hoặc truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.

4. Bộ Tài chính có trách nhiệm bố trí ngân sách Nhà nước để thực hiện các chế độ ưu đãi đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng.

5. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm:

a) Chỉ đạo tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”;

b) Tổ chức thực hiện chế độ ưu đãi đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng thuộc phạm vi, thẩm quyền.

Điều 8. Hiệu lực thi hành

1. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 7 năm 2013.

Chế độ ưu đãi đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng được thực hiện theo Khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh số 05/2012/UBTVQH13 ngày 20 tháng 10 năm 2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

2. Nghị định số 176-CP ngày 20 tháng 10 năm 1994 của Chính phủ về việc thi hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và các quy định pháp luật trái với quy định tại Nghị định này hết hiệu lực thi hành kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực.

Điều 9. Trách nhiệm thi hành

Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- HĐND, UBND các tỉnh, TP trực thuộc TW;
- Văn phòng TW và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Tổng Bí thư;
Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các UB của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- UB Giám sát tài chính QG;
- Kiểm toán Nhà nước;
- Ngân hàng Chính sách xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
- Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTCP,
Cổng TTĐT, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo;
- Lưu: Văn thư, KGVX (3b).

TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG

(đã ký)

Nguyễn Tấn Dũng


Lần cập nhật cuối ( Thứ sáu, 31 Tháng 7 2015 14:43 )
 

LÝ GIẢI KHẢ NĂNG TÌM MỘ CỦA CÁC NHÀ NGOẠI CẢM

Email In PDF.

Ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh (giám đốc Trung tâm Nghiên cứu lý học Đông phương), người trực tiếp tham gia tìm mộ đã đưa ra một số lý giải thú vị về khả năng đặc biệt của nhà ngoại cảm.

- Là một người từng chứng kiến và tham gia một số cuộc tìm kiếm một liệt sĩ dưới sự tư vấn của các nhà ngoại cảm, ông đánh giá thế nào về khả năng của họ trong lĩnh vự này?
Qua các trường hợp mà tôi chứng kiến, tôi chỉ có thể nói, khả năng của các nhà ngoại cảm thật tuyệt vời.
- Ông có thể lý giải những khả năng đặc biệt của các nhà ngoại cảm bằng lý thuyết của lý học Đông phương được không?

Khả năng của các nhà ngoại cảm là một hiện tượng khách quan, được kiểm chứng trên thực tế. Hiện tượng này không chỉ ở Việt Nam mà còn ở khắp nơi trên thế giới. Như hiện tượng nhà tiên tri Vanga là một ví dụ. Để lý giải hiện tượng này, tôi chủ quan cho rằng, chúng ta cần phân biệt phương tiện nhận biết và tính nhận biết. Tôi lấy ví dụ, con người là tính nhận biết và cái tivi là phương tiện nhận biết. Không có con người, hoặc sinh vật có khả năng nhận biết thì chiếc tivi đó mặc dù truyền tải thông tin nhưng sẽ không đem lại sự nhận biết.
Tương tự như vậy, các giác quan là phương tiện nhận biết và não là tính nhận biết của các giác quan. So sánh sâu hơn thì não cũng là phương tiện nhận biết và trong cấu trúc vật chất của nó phải có tính nhận biết. Như vậy, tôi đặt một giải thuyết cho rằng, trong cấu trúc não của các nhà ngoại cảm phải có sự phát triển một dạng cấu trúc đặc biệt nào đó khác bình thường, có khả năng như một phương tiện nhận biết mà người khác không có.
- Phương pháp sử dụng con lắc để xác định mộ liệt sĩ của ông ( từng áp dụng trong hành trình tìm mộ liệt sĩ Vũ Văn Sơn ) dựa trên cơ sở khoa học nào?
Theo tôi hiểu thì việc sử dụng con lắc có trước khi xuất hiện khái niệm “cơ sở khoa học”. Từ thời cổ đại người ta đã sử dụng con lắc để tìm kiếm nguồn nước. Như vậy việc sử dụng con lắc không xuất phát từ tri thức của nền khoa học hiện đại để có khái niệm “áp dụng cơ sở khoa học” nào cho việc sử dụng con lắc. Chúng ta chỉ có thể ứng dụng những tri thức khoa học hiện đại để lý giải những hiện tượng và vấn đề tồn tại một cách khách quan trong lịch sử văn minh nhân loại và có trước sự hình thành nền tảng của tri thức khoa học hiện đại. Một ví dụ trong nội dung này là việc sử dụng con lắn hoặc các bộ môn ứng dụng của lý học Đông phương.
Xuất phát từ luận điểm này, tôi cho rằng để giải thích việc sử dụng con lắc – một phương tiện cổ xưa – từ hiểu biết của tri thức khoa học hiện đại thì rất khó khăn. Do nền tảng tri thức của nền văn minh cổ xưa tạo ra phương pháp sử dụng con lắc và nền tảng tri thức của nền văn minh hiện nay – mà chúng ta gọi là tri thức khoa học hiện đại – có nhiều khác biết. Nó cũng tương tự như lấy tri thức khoa học hiện đại giải thích những bí ẩn của Kim Tự Tháp vậy.
Tôi nghĩ rằng để giải thích vấn đề này cần có sự hội nhập giữa hai nền văn minh xưa và tri thức khoa học hiện đại. Do đó, để giải thích hiện tượng ứng dụng con lắc từ tri thức khoa học hiện đại sẽ rất phức tạp, nằm ngoài khuôn khổ của một bài báo. Tôi hy vọng sẽ được trình bày đầy đủ trong một dịp khác. Nhưng ý niệm ban đầu của tôi để giải thích hiện tượng sử dụng con lắc là liên quan đến trường điện từ.
- Trong hành trình tìm mộ liệt sĩ Vũ Văn Sơn, theo lời ông kể lại thì sự xác định vị trí mộ phần của ông bằng con lắc cũng không chính xác. Vậy có thể đặt bao nhiêu phần trăm niềm tin vào phương pháp này?
Trong việc tìm mộ liệt sĩ Vũ Văn Sơn thì con lắc chỉ đúng khu vực mà hai vị liệt sĩ đã hy sinh và vị trí liệt sĩ Sơn bị thương nặng trên ruộng lạc. Tuy nhiên, con lắc chỉ sai vị trí mộ ban đầu của liệt sĩ Sơn khoảng 9 mét (mộ này sau đó cải tang vào nghĩa trang liệt sĩ). Theo hiểu biết của tôi thì sự chính xác của một phương pháp ứng dụng bao giờ cũng có sai số. Trên thực tế tôi chỉ sử dụng con lắc để kiểm chứng lại việc đi tìm huyệt đặt mộ cho người đã khuất theo phương pháp phong thủy. Chỉ có một lần tôi sử dụng con lắc tìm mộ, nhằm xác định cụ thể hơn vị trí của các liệt sĩ đã nằm, khi các nhà ngoại cảm đã xác định được khu vực hy sinh của các liệt sĩ ấy.
- Ông có tin vào sự tồn tại của “linh hồn” không? Việc các nhà ngoại cảm hoặc một ai đó tiếp xúc được với các “linh hồn” rồi nói chính xác một số thông tin trong quá khứ có lý giải được bằng các cơ sở lý thuyết của lý học Đông phương không?

Để giải thích những hiện tượng trên từ nền tảng tri thức của lý học Đông phương, phù hợp với tri thức khoa học hiện đại, tôi cần xác định ngay rằng, hệ thống tri thức của lý học Đông phương hoàn toàn phù hợp với những giá trị của nền tảng tri thức khoa học hiện đại, thể hiện qua tiêu chí khoa học cho một hệ thống lý thuyết được coi là khoa học. Từ quan niệm này, chúng ta cần đặt lại vấn đề khái niệm “linh hồn”.
Trong lý học Đông phương và trong rất nhiều văn bản cổ xưa có nhắc đến linh hồn. Cụ thể trong Kinh Dịch, Hệ Từ có viết: “Hồn thoát ra ngoài, hoàn tất sự biến hóa”. Vậy “hồn” hay “linh hồn” có phải là một dạng tồn tại của vật chất không? Nếu linh hồn là một sự tồn tại thần bí, phi vật chất thì không thể có năng lượng và tương tác với các nhà ngoại cảm. Còn một khi nó có những hiệu ứng tương tác thì chứng tỏ nó chính là một dạng tồn tại của vật chất. Phần còn lại là người ta giải thích nó như thế nào? Hoặc là với khái niệm “linh hồn” là những hồn ma tồn tại như quan niệm phổ biến hiện nay. Hoặc chỉ coi “linh hồn” là một tồn tại của vật chất tế vì còn sót lại của người đã khuất, mà tri thức khoa học hiện đại chưa giải thích được. Khoa học hiện đại đang đi tìm hạt của Chúa. Rõ ràng họ cũng đang đặt vấn đề về một dạng tồn tại của vật chất mà tri thức khoa học hiện đại chưa giải thích được.
- Xin cảm ơn ông!

Lần cập nhật cuối ( Thứ tư, 08 Tháng 10 2014 14:53 )
 

19 CÂU NÓI ĐÁNG SUY NGHỈ VỀ HẠNH PHÚC

Email In PDF.
Một phút bạn tức giận - sáu mươi giây bạn mất đi hạnh phúc - Ralph Waldo Emerson. Haley
(Dịch từ Goodreader)
1- Đừng khóc với những gì đã qua, hãy mỉm cười vì nó đã xảy ra. - Dr. Seuss
2- Hãy đếm số tuổi của bạn bằng bạn bè, không phải bằng năm. Hãy đếm cuộc sống của bạn bằng nụ cười, không phải bằng nước mắt - John Lennon
3- Hạnh phúc có được phụ thuộc vào chính bản thân chúng ta - Aristotle
4- Hạnh phúc là ý nghĩa, là mục đích của cuộc sống, là sự cố gắng và kết thúc của một đời người - Aristotle
5- Hạnh phúc của cuộc đời phụ thuộc vào những suy nghĩ tích cực của chúng ta - Marcus Aurelius
6- Bất cứ ai hạnh phúc, sẽ làm người khác hạnh phúc - Anne Frank
7- Hạnh phúc không phải từ những điều mà ta nhận được, mà từ những điều mà ta cho đi - Ben Carson
8- Một phút bạn tức giận - sáu mươi giây bạn mất đi hạnh phúc - Ralph Waldo Emerson
9- Hạnh phúc không phải là ở việc sở hữu một số lượng lớn tiền bạc, mà là ở trong niềm vui về thành công, trong sự hồi hộp của nỗ lực sáng tạo! - Franklin D. Roosevelt

10- Hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời là có thể tin chắc rằng chúng ta được yêu thương - yêu vì chính bản thân ta, hay đúng hơn, đó là yêu bất kể bản thân ta - Victor Hugo
11- Hãy hạnh phúc với chính bản thân bạn, với những việc bạn làm và những việc bạn muốn làm! - Steve Maraboli
12- Quy luật của hạnh phúc: một việc nào đó để làm, một người nào đó để yêu và một điều nào đó để hy vọng - Immanuel Kant
13- Khi bạn nuôi dưỡng cay đắng, hạnh phúc sẽ cập bến ở một nơi khác - Andy Rooney
14- Hạnh phúc chỉ tồn tại khi chúng ta biết cách chia sẻ nó - Christopher McCandless
15- Hạnh phúc mà bạn nhận được tỷ lệ thuận với yêu thương bạn cho đi - Oprah Winfrey
16- Hiểu hơn về giá trị bản thân, có nghĩa là: chiến đấu để có được hạnh phúc - Ayn Rand
17- Hạnh phúc không phải là một mục tiêu.... Đó là sản phẩm của một cuộc sống tươi đẹp - Eleanor Roosevelt
18- Với tất cả những sự giả dối, đau khổ và cả những giấc mơ tan vỡ, thì thế giới này vẫn luôn tươi đẹp. Hãy vui lên. Hãy đấu tranh để giành lấy hạnh phúc - Max Ehrmann
19- Ngày hôm qua đã tàn, ngày mai vẫn chưa tới. Nhưng tôi vẫn có một ngày hôm nay... Ngày mà tôi sẽ hạnh phúc! - Groucho Marx
Lần cập nhật cuối ( Thứ sáu, 31 Tháng 7 2015 14:43 )
 

Ý NGHĨA NHỮNG CON SỐ TRONG PHONG THỦY

Email In PDF.
Trong chín con số cơ bản đều có những sự kết hợp chính xác, có thể dùng chúng trong những công việc bài trí để nâng cao các khu vực tốt và giúp hóa giải các khu vực xấu.
Số Một (1)
Là con số của các vị thần thánh, của hoành đồ, được hiểu như là con trai của cõi trời. Số một tượng trưng cái đỉnh tối thượng, đỉnh núi cao - độc nhất không còn ai khác nữa. Chúng ta, con người không thể nắm giữ vị trí này lâu dài, vì nó có thể đơn độc và hiểm nghèo, bởi chúng ta không phải là thần thánh. Chỉ có thần thánh mới có thể nắm giữ vị trí này mãi mãi.
Số hai (2)
Tượng trưng là một cặp, một đôi, một con số hạnh phúc (song hỷ) và điều hành thuận lợi cho những sự kiện như sinh nhật, cưới hỏi, hội hè. Số hai tượng trưng sự cân bằng âm dương kết hợp tạo thành thái lưu hay là nguồn gốc của vạn vật. Các câu đối đỏ may mắn thường được dán trước cửa nhà cổng chính vào dịp đầu năm mới.
Số ba (3)
Được xem là con số vững chắc, như kiếng ba chân là một hình thức vững chắc nhất. Người Trung Quốc có câu “ba với ba là mãi mãi” (bất tận) và biểu tượng hy vọng trường thọ. Phong thủy dùng nhiều lĩnh vực số học trong việc bài trí các đồ vật và con số ba là con số đặc biệt hữu dụng cho việc tăng thêm vẻ vững chắc khi đập mắt vào và sự hài hòa của một môi trường.
Số bốn (4)
Là sự hình thành của hai đôi. Hai cặp chắc hẳn phải tốt lành, thuận lợi nhưng trong cách phát âm tiếng Trung Quốc nó giống như chữ “tử” (chết). Vì thế sự kết hợp này không được tốt đẹp lắm. Thuật phong thủy tìm cách tránh bất cứ sự bài trí có liên quan đến con số bốn.
Số năm (5)
Tượng trưng cho danh dự, uy quyền, quyền lực. Số năm còn có nghĩa là năm hướng (Bắc, Nam, Đông, Tây và Trung tâm) là năm ngọn núi thiêng liêng của Trung Quốc. Số năm tượng trưng cho trường thọ và bất diệt. Con số năm cũng là sự kết hợp với căn nhà bằng vàng, nắm giữ sự thịnh vượng và hạnh phúc cho mỗi gia đình. Số năm là một con số tuyệt vời dùng trong việc bài trí phong thủy.
Số sáu (6)
Là gấp đôi của số ba và như thế là điềm lành, thuận lợi. Ba cộng thêm sáu là chín và cùng nhau tạo thành nhóm ba con số may mắn. Một sự bài trí dùng bất cứ đồ vật có 6, 9, 3 món đều tốt cho việc hòa giải những khu vực xấu hoặc những nơi hướng xấu.
Số bẩy (7)
Là con số có sức mạnh kỳ diệu với những nguồn gốc truyền thuyết sâu sắc. Đó là 7 sao và cây gươm 7 sao dùng trong nghi lễ đạo Lão, tượng trưng cho sức mạnh đẩy lùi ma quỷ trong phong thủy, một sự bài trí 7 món đồ vật được ban cho một sức mạnh kỳ bí và một cảm giác của sự bất khả xâm phạm.
Số tám (8)
Cũng là con số có nhiều sự quan hệ tôn giáo, là tám điều bất tử trong đạo Lão và bát chánh trong Phật giáo. Một cửa sổ hình bát giác hoặc bình cắm hoa tám mặt và một bát quái (thường được treo trước ngưỡng cửa) cũng tốt, có thể ngăn chặn những ảnh hưởng xấu trước khi chúng muốn xâm nhập vào nhà.
Số chín (9)
Và cuối cùng là con số chính, là con số hạnh phúc, an lành, thuận lợi. Tiếng Trung Quốc, số chín đồng âm với từ “trường thọ và may mắn”.
Lần cập nhật cuối ( Thứ sáu, 31 Tháng 7 2015 14:44 )
 
Trang 1422 trong tổng số 1426 trang.
Bạn đang ở: Trang chủ Trao đổi